Ngành công nghiệp dầu lửa đang chịu nhiều biến động, nhưng vẫn phần nào lẩn tránh sự thật.
MỘT SỐ NGƯỜI GỌI VÙNG ĐẤT NÀY LÀ "Texarabia". Ở Midland, Tây Texas, cứ mỗi 40 mẫu đất trống lại có một cái bơm, rút dầu từ những nền đá phiến nằm sâu 3.700 mét dưới lòng lưu vực Permian. Một cái bơm đang vất vả làm việc trong bãi đậu xe của đội West Texas Drillers - một đội bóng bầu dục địa phương. Bảo tàng Dầu khí Permian Basin, nằm ở rìa của thị trấn, có triển lãm - “những chú lừa gật gù” - từ thời những năm 1930. Ở mảnh đất phía sau chúng là một cái bơm khác đang nhịp nhàng lên xuống.
Dù vậy, lái xe 20 dặm về phía bắc, các ống bơm này bị hàng trăm tua bin gió đang xoay bên trên chúng làm lu mờ (xem hình ảnh). Trên những đồng cỏ bông, trong nắng trắng lung linh vào chớm thu, hình ảnh đó cho cái nhìn thoáng qua về những chuyển biến của (thị trường) năng lượng.
Bạn có thể nghĩ rằng những nhà sản xuất dầu cứng nhắc sẽ phản kháng lại việc những tuabin gió mở đường cho một tương lai mà thế giới không còn cần nhiên liệu hóa thạch. Nhưng Joshua Johnson, người điều hành một chuỗi khu vực đất dầu cho thuê (những mảnh đất được các công ty thuê để khai thác dầu) ở khu vực này và là người tự hào chỉ cho phóng viên chúng tôi thấy lượng dầu thô bóng lưỡng đựng trong những thùng chứa dầu 500bbl, lại nhìn nhận sự việc khác hơn, ông nói: “Tôi nghĩ rằng những công nghệ mới là một điều tuyệt vời" Với ông, năng lượng tái tạo là sự bổ sung quan trọng cho dầu một khi nhu cầu năng lượng của thế giới tăng lên. Tuy nhiên, ông bác bỏ sự ấm lên của trái đất: “Ở đây luôn nóng như địa ngục.”
Lưu vực Permian là giới tuyến mới nhất của dầu, và nó đang oằn mình bởi sự bùng nổ của những khoản đầu tư nhỏ, cho dù đây đang là giai đoạn suy thoái lớn nhất của thị trường dầu lửa kể từ thập niên 1990. Số lượng các giàn khoan đã tăng 60% kể từ tháng Năm, trong khi ở các lưu vực đá phiến sét khác ở Mỹ chỉ tăng lên chút ít. Quá trình cắt phá bằng thuỷ lực, còn được gọi là “fracking”, từ những giếng đã được khoan đang tăng lên; xung quanh Midland hình ảnh các xe tải lớn màu đỏ tụ tập xung quanh một lỗ thăm dò tựa như những toa xe của gánh xiếc, bơm chất lỏng và cát ở áp suất cao, đã trở nên quen thuộc hơn (mặc dù số lượng khai thác vẫn chỉ ở mức một nửa so với thời đỉnh điểm năm 2014).
Vì vậy, trong năm nay Wall Street đã tài trợ hơn 20 tỷ đô la cho các công ty dầu khí của Mỹ, chủ yếu là để mua lại các tài sản và khai thác (bằng thuỷ lực cắt phá) ở Permian. Một số người nghĩ rằng những triển vọng đó đã được thổi phồng, nhưng Scott Sheffield, ông chủ của Pioneer Natural Resources, một trong những nhà sản xuất lớn nhất của khu vực lại không nghĩ vậy. Ông cho rằng Permian, được tạo thành bởi nhiều lớp đá chứa dầu từ 250 triệu năm trước, có thể có lượng dầu nhiều như giếng dầu Ghawar ở Saudi Arabia - nguồn của hơn một nửa lượng dầu của vương quốc giàu dầu lửa này. Đó có lẽ chỉ là điều mơ tưởng, nhưng nó cho thấy rằng tinh thần trong ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ đang hồi phục sau sự sụp giá của dầu.
Câu chuyện của Permian là một ví dụ rằng tập hợp của sự may mắn, địa chất, công nghệ, luật pháp và sự ngoan cường có thể tiếp tục cung cấp một lượng dầu dồi dào. Những khám phá như vậy giải quyết câu hỏi từ xưa đến nay của ngành dầu lửa là dầu bao giờ sẽ cạn. Trong cuốn sách mới của mình, *Market Madness: A Century of Oil Panics, Crises and Crashes* Blake Clayton phân ra bốn giai đoạn khi thế giới hoảng sợ vì "dầu ở mức cao điểm". Giai đoạn thứ nhất là sự xuất hiện của xe hơi và giá dầu bắt đầu tăng cao. Giai đoạn thứ hai trùng hợp với chiến tranh thế giới thứ hai. Giai đoạn thứ ba là vào những năm 1970, khi OPEC đẩy giá dầu lên cao. Giai đoạn thứ tư bắt đầu vào giữa những năm 2000 khi giá dầu tăng lên 140 đô la một thùng. Tuy nhiên, chứng minh cho thấy các tiên tri luôn sai. M. King Hubbert, một người kỳ cựu trong giới chuyên gia dự đoán đỉnh điểm của dầu, dự đoán từ năm 1956 rằng nguồn cung của dầu toàn cầu sẽ không bao giờ vượt quá 33 triệu thùng một ngày. Hiện nay nó đang ở mức 97 triệu thùng một ngày. Theo BP, một công ty dầu của Anh, trữ lượng dầu toàn cầu được minh chứng là đã tăng 50% trong 20 năm qua, và ở mức sản xuất hiện tại chúng sẽ còn được thêm 50 năm nữa (xem biểu đồ).
Nhiều quá cũng chẳng tốt
Khi những quan tâm về khí hậu tăng lên, những nhà hoạch định chính sách, những nhà quản lý và những nhà đầu tư đã chuyển từ việc lo lắng về sự thiếu hụt dầu sang băn khoăn về một thị trường dư thừa dầu. Trong trường hợp cực đoan nhất, các chuyên gia nói rằng nếu có được một cơ hội 50/50 để trái đất không ấm lên quá 2ºC, thì chỉ có thể đốt 35% trữ lượng nhiên liệu hóa thạch hiện tại (trong đó chủ yếu là than và dầu). Nếu giới hạn mục tiêu là 1.5ºC, thì chỉ 10% trữ lượng hiện tại có thể được sử dụng. Như ông Clayton viết: "Dầu sẽ lỗi thời trước khi các giếng dầu cạn."
Ông Sheffield của công ty Pioneer, một kẻ lập dị trong ngành dầu lửa Mỹ, đồng ý. Ông cho rằng nhu cầu dầu lửa toàn cầu có thể đạt đỉnh trong vòng 10-15 năm tới bởi tăng trưởng toàn cầu chậm và sự ra đời với quy mô lớn của những xe điện chạy bằng năng lượng tái tạo. Để chuẩn bị cho thời điểm đó, ông nói rằng Pioneer đang xem xét việc bán tài sản tại những nơi khác ở Mỹ để tập trung vào Permian, nơi ông lập luận là đủ rẻ để cạnh tranh trong một thế giới mà nhu cầu dầu lửa đang giảm.
Tương tự như Pioneer, một số các công ty dầu tổng hợp lớn hơn, đặc biệt là những công ty ở châu Âu, đang thay đổi những đánh cuộc (của họ) về dầu lửa trong tương lai, chủ yếu vì sự sụp giá của dầu gần đây. Ví dụ, Royal Dutch Shell, một công ty hàng đầu của Anh-Hà Lan, rút ra khỏi vùng Bắc Cực vì việc khoan dầu ở đó quá đắt. Total, một công ty dầu của Pháp, cũng không còn muốn đầu tư nhiều vào vùng cát dầu ở Canada vì những lý do tương tự. Nhưng họ cũng nhận ra rằng nếu nhu cầu dầu giảm dài hạn thì những công ty sở hữu dầu giá rẻ nhất sẽ tồn tại lâu nhất. Simon Henry, giám đốc tài chính của Shell, cho biết công ty dự đoán nhu cầu dầu lửa sẽ đạt đỉnh trong 5-15 năm tới. Họ dự định chỉ tập trung vào những nơi được xem là có nguồn dự trữ rẻ nhất như Brazil, nơi họ có thể thu hồi được vốn đầu tư trong khoảng thời gian đó. Họ cũng có thể cắt giảm việc khai thác dầu. Total cũng hy vọng tìm được nguồn dầu với chi phí thấp. Họ đã mua một phần nhỏ quyền sở hữu khai thác dầu trong vòng 40 năm ở khu vực gần Abu Dhabi, với hy vọng rằng dầu của vùng Vịnh sẽ luôn rẻ.
Chủ yếu phần lớn dầu dự trữ nằm trong tay các nước OPEC, và vì vậy rất khó để các công ty phương Tây chạm vào, nên một số công ty dầu đang quay sang khí như là một bổ sung cho dầu lửa (xem biểu đồ). Năm nay, Shell hoàn tất việc mua lại BG, một nhà sản xuất khí tự nhiên và dầu của Anh với giá 54 tỉ đô la, và khí giờ đây chiếm gần một nửa kho năng lượng của họ. Những nhà kinh doanh dầu lửa nói rằng kinh doanh khí phức tạp hơn dầu; nó đòi hỏi việc bỏ trước nhiều vốn để phát triển, xây đường ống vận chuyển và một hệ thống giao hàng mới, và vì vậy lợi nhuận có thể thấp hơn. Tuy nhiên, ngay cả những viễn cảnh bi quan nhất về tương lai của nhiên liệu hóa thạch vẫn cho rằng khí sẽ tăng trưởng tốt hơn dầu.
Vừa đai vừa nịt
Một số công ty cũng đặt cược vào các công nghệ năng lượng tái tạo, phòng trường hợp chúng phát triển quá nhanh. Total đã mua các doanh nghiệp pin và năng lượng mặt trời, mặc dù Patrick Pouyanné, ông chủ của Total khẳng định rằng nếu không có lợi nhuận từ dầu mỏ và khí đốt thì Total không có khả năng để làm như vậy. Còn ông Henry của Shell cho biết mô hình kinh doanh của công ty mình có thể sẽ ngày càng giống những quỹ chủ quyền tài sản của Na Uy, là chuyển hướng dòng tiền lớn từ dầu sang công nghệ các-bon thấp. BP, công ty dầu của Anh, người đi tiên phong trong khái niệm của “Xa hơn Dầu lửa”, lại cảm thấy hối tiếc vì những đầu tư vào năng lượng mặt trời đã không mang lại lợi nhuận, và lần đầu tiên trong năm năm, họ đang cân nhắc để đầu tư nhiều hơn vào (năng lượng) gió. Khi bản chất của quá trình chuyển đổi năng lượng trở nên rõ ràng hơn, các công ty này cho biết họ có thể phải đầu tư hàng chục tỷ đô la để phát triển các ngành kinh doanh năng lượng mới.
Philip Whittaker của Boston Consulting Group (BCG) lưu ý rằng trong quá khứ các dự án dầu đều đẻ ra tiền, bởi vì giá trị của một thùng dầu dư bao giờ cũng hơn giá sản xuất ra chúng. Sự khác biệt đó nhỏ đi khi các nguồn dự trữ ngày càng khó tìm, nhưng các nhà đầu tư vẫn thích vì lợi nhuận tương đối cao của ngành công nghiệp dầu. Một khi một công ty dầu đã thu hồi chi phí phát triển một khu vực khai thác, nó có thể (tiếp tục) đem lại lợi nhuận trong nhiều thập kỷ.
Ông ta nói rằng việc đầu tư vào năng lượng tái tạo có thể không lời như dầu lửa. Các công ty dầu mỏ lớn có hầu bao lớn và họ thực hiện những đầu tư lớn tương xứng, nhưng trước mắt, rất khó để thấy được rằng năng lượng tái tạo sẽ đạt tầm vóc và trở thành phần quan trọng của những công ty này. Có lẽ việc cài đặt một lượng lớn các tuabin gió ngoài khơi ở những vùng biển sâu và hoang sơ tương tự với việc khoan dầu ở vùng biển sâu. Nhưng khi các công ty dầu mỏ càng trở nên giống các công ty điện lực, thì hồ sơ rủi ro của họ càng trông như một tiện ích tẻ nhạt. Họ sẽ phải tham gia với người tiêu dùng, điều mà ngành công nghiệp nặng về kỹ thuật này không hề hứng thú.
Trên một quy mô lớn hơn nhiều, chính phủ Saudi hy vọng theo đuổi chiến lược đa dạng hóa qua việc IPO ( Chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng) một phần của Saudi Aramco. Một phần số tiền thu được, ước tính lên đến 150 tỷ đô la, sẽ được đưa vào một quỹ chủ quyền tài sản khổng lồ chuyên đầu tư vào các công nghệ (năng lượng) mà trong tương lai có thể thay thế dầu. Một số người cho rằng vương quốc này gần đây sản xuất dầu ở mức kỷ lục vì nó nghĩ rằng kỷ nguyên dầu sẽ sớm chấm dứt. Những người khác lại nghĩ rằng đó chỉ đơn giản là vì (Saudi Arabia) muốn thu hồi lại thị phần từ những nhà sản xuất khác.
Trong khi đó, ở Mỹ, nhiều công ty dầu dường như chỉ muốn được yên. Một số người cho rằng các tác động của thị trường sẽ làm giảm lượng khí thải tốt hơn là những hành động phối hợp của các chính phủ. Họ chỉ ra rằng việc thay than bằng khí từ đá phiến sét đã cắt giảm lượng khí thải xuống mức thấp nhất trong vòng mười năm qua. Nhiều người hy vọng rằng việc giảm đầu tư vào ngành công nghiệp dầu lửa trong thời gian gần đây sẽ dẫn đến thiếu hụt dầu và vì thế sẽ đẩy vọt giá dầu vào những năm cuối thập kỷ này. Nhưng như Whittaker của BCG nói, có thể đó là "Nỗ lực cuối cùng" của thị trường dầu mỏ, đẩy một nhát cuối cùng để rồi điện khí hóa.